Trung Quốc đã công bố con số tỷ lệ thất nghiệp trong thanh niên cao ngất ngưởng. Nhưng liệu đó đã phản ánh hết thực tế? Và liệu tỷ lệ thất nghiệp toàn dân có phải chỉ là 5,2%?
Một trong những chủ đề nóng hiện nay là tỷ lệ thất nghiệp của Trung Quốc. Con số thất nghiệp của thanh niên được báo cáo mới nhất đã tăng lên 21%, cho thấy tỷ lệ thất nghiệp trong nhóm “cuối tuổi vị thành niên đến đầu tuổi đôi mươi” là 1/5.
Trái ngược với con số 21% của Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc, một học giả Bắc Kinh đã công bố con số thất nghiệp ở thanh niên là 46,5%. Ngay sau khi công bố, bài báo đã bị xóa khỏi tất cả các nền tảng. Một hành động mang tính đàn áp như vậy chắc chắn đã làm gia tăng độ tin cậy của những phát hiện của học giả này trong tâm trí mọi người.
Kinh nghiệm cho thấy tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên thường gấp hai hoặc ba lần so với tỷ lệ chung. Điều này là do:
- Tỷ lệ các công việc có sẵn không yêu cầu kinh nghiệm là nhỏ và hầu hết các cơ hội việc làm là các vị trí thay thế, không phải các vị trí mới được tạo ra.
- Hầu hết sinh viên mới tốt nghiệp thích công việc văn phòng, vốn có nguồn cung dư thừa so với công việc công nhân.
- Tất cả sinh viên tốt nghiệp đều sẵn sàng làm việc sau khi hoàn thành kỳ thi mùa hè, tuy nhiên việc tạo việc làm là một quá trình dần dần xảy ra trong năm.
Một ví dụ cực đoan về thất nghiệp xảy ra vào năm 2013/14, giai đoạn hậu khủng hoảng nợ châu Âu. Trong khi Tây Ban Nha và Hy Lạp, hai trong số những nền kinh tế yếu nhất, đều phải đối mặt với tỷ lệ thất nghiệp quốc gia lên tới 25-30%, thì tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên của họ đều lên tới khoảng 60%.
Khi hỏi ý kiến những mối liên hệ của tôi ở Trung Quốc đại lục, họ cũng xác nhận rằng con số tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên là 1/2 thực tế hơn nhiều so với 1/5.
Nếu con số 46,5% cho tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên Trung Quốc là chính xác, thì tỷ lệ thất nghiệp quốc gia thực sự sẽ vào khoảng một phần ba đến một nửa con số này, từ 16 đến 23%, hoặc khoảng một phần năm. Điều này sẽ cho thấy một quốc gia rộng lớn như Trung Quốc đã rơi vào tình trạng suy thoái.
Trong cuộc Đại khủng hoảng năm 1933, tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ lên tới 25%.
Số liệu thất nghiệp chính thức của Trung Quốc không phù hợp với quy luật. Nếu tỷ lệ thanh niên là 21,3% thì tỷ lệ chung của cả nước phải là từ 7% đến 11%, gấp đôi mức 5,2% được công bố chính thức. Sau khi Canada công bố tỷ lệ thất nghiệp 5,4% mới nhất, liệu cộng đồng người Hoa hải ngoại có đồng tình và cho rằng quê hương của họ đang ở tình cảnh tốt hơn thế không?
Lý do biện minh chính thức của Trung Quốc là tỷ lệ thất nghiệp chính thức chỉ bao gồm dữ liệu từ các khu vực thành thị, không phải khu vực nông thôn. Khi các nhà máy tiếp tục đóng cửa ở Trung Quốc, những người thất nghiệp đang trở về nhà của họ ở các vùng nông thôn, khiến những cư dân còn lại ở khu vực thành thị trở thành có việc làm.
Một điểm gây tranh cãi khác là cách các số liệu được theo dõi. Việc làm được định nghĩa là ít nhất một giờ làm việc được trả lương trong một tuần nhất định. Mặc dù đây thực sự là định nghĩa của Tổ chức Lao động Quốc tế, nhưng hầu hết các quốc gia khác không báo cáo tỷ lệ thất nghiệp theo cách này; Mỹ báo cáo tỷ lệ U3 (những người thất nghiệp đang tìm việc làm) thay vì tỷ lệ U1 (những người thất nghiệp từ 15 tuần trở lên).
Nếu tỷ lệ thất nghiệp ở mức khoảng 20%, hầu như không có lối thoát nào cho hầu hết các doanh nhân Trung Quốc, đặc biệt là những người giàu kinh doanh bất động sản. Họ chắc chắn sẽ trở nên nghèo khó hoặc mắc nợ. Tình hình này sẽ chỉ mang lại những cơ hội hiếm hoi để đạt được mức sống chấp nhận được. Tình cảnh này có khả năng kéo dài đến hai năm.
Bài viết chỉ phản ánh quan điểm của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của NTD Việt Nam.
Theo The Epoch Times
Bảo Nguyên biên dịch
Tác giả Law Ka-Chung là nhà bình luận về kinh tế vĩ mô và thị trường toàn cầu. Ông đã viết cho nhiều tờ báo và tạp chí; nói chuyện trên nhiều kênh truyền hình, đài phát thanh và cả trực tuyến tại Hong Kong về các vấn đề thị trường kể từ năm 2005. Các chủ đề của ông rất đa dạng: từ kinh tế vĩ mô đến triển vọng thị trường đối với chứng khoán, tiền tệ, tỷ giá, lợi tức và hàng hóa ở Mỹ, châu Âu và châu Á. Ông Ka-chung có bằng Tiến sĩ Kinh tế, Thạc sĩ Toán học và Thạc sĩ Vật lý thiên văn. Email: lawkachung@gmail.com